Bệnh viêm vùng chậu làm tăng nguy cơ viêm nhiễm, tạo thành những mô sẹo và gây tắc nghẽn tại ống dẫn trứng, từ đó giảm khả năng thụ thai.
Bệnh viêm vùng chậu (PID) là một bệnh nhiễm trùng cơ quan sinh sản ở đàn bà, xảy ra thời điểm vi khuẩn đi lại qua cổ tử cung tới tử cung và ống dẫn trứng. Viêm vùng chậu có thể khiến nữ giới khó có con hơn, thậm chí gây vô sinh. Theo CDC Mỹ, cứ 8 phụ nữ bị viêm vùng chậu thì có 1 người bị vô sinh.
Tác nhân thường gặp nhất của vô sinh liên quan tới PID là ống dẫn trứng bị tắc. Vi khuẩn xâm nhập dẫn tới viêm nhiễm, gây tạo thành những mô sẹo. Các mô sẹo này có thể tạo ra tắc nghẽn trong ống dẫn trứng khiến tinh trùng và trứng khó gặp nhau hơn. PID cũng có thể gây ra hydrosalpinx, là tình trạng mà ống dẫn trứng bị tắc bởi nhiều chất lỏng. Tình trạng hydrosalpinx cũng có thể làm giảm tỷ lệ thành công lúc chữa trị IVF.
Có thai ngoài tử cung cũng có thể liên quan tới PID. Một vài trường hợp viêm vùng chậu cần được mổ để khắc phục những tổn thương ở ống dẫn trứng, điều này sẽ làm tăng nguy cơ mang thai ngoài tử cung hơn. Ngoài ra, nữ giới bị PID còn có nguy cơ đau vùng chậu mãn tính, áp xe ống dẫn trứng hoặc buồng trứng, viêm dính, viêm phúc mạc và viêm quanh gan. Trong một vài trường hợp nghiêm trọng, PID không nên điều trị có thể dẫn đến tử vong. Tuy thế, phụ nữ mắc PID vẫn có thể có thai với sự giúp đỡ của những phương pháp chữa sinh sản.
Triệu chứng thường gặp nhất của PID là đau vùng chậu. Những triệu chứng khác bao gồm đau vùng chậu thời điểm quan hệ tình dục, đau lưng dưới, kinh nguyệt không đều, tiết dịch “cô bé” không bình thường, những vấn đề về tiểu tiện,… Vài ba triệu chứng có thể bị nhầm với các bệnh khác như viêm ruột thừa, lạc nội mạc tử cung hoặc nhiễm khuẩn đường tiểu. Do thế, chị em cần thông báo với bác sĩ nếu nghi ngờ bản thân mắc bệnh lây truyền qua những đường tình dục hoặc có những yếu tố nguy cơ khác đối với PID, như sẩy thai, sinh con hoặc có bầu ngoài tử cung,…
PID dẫn đến những cơn đau tại vùng chậu, lưng dưới. Ảnh: Pinterest
Những triệu chứng bệnh viêm vùng chậu khác nhau ở mỗi người, tùy thuộc tình trạng PID cấp tính (những triệu chứng đột ngột, nghiêm trọng), mãn tính (diễn biến lâu dài với các triệu chứng ít hiểm nguy hơn) hoặc thầm lặng (không có triệu chứng). Dù vậy, các triệu chứng không nói lên mức độ tổn thương của các cơ quan sinh sản. Một vài đàn bà chỉ phát hiện ra mắc PID sau thời điểm cố gắng thụ thai không thành công hoặc có thai ngoài tử cung.
PID thường do những bệnh phát tán qua con đường tình dục (STDs) gây ra. Trong đó chlamydia và bệnh lậu là hai lý do đa số. Chlamydia thường gây ra PID thầm lặng, nhiều đàn bà không biết mình bị nhiễm bệnh cho tới lúc vài ba vi khuẩn thường được tìm thấy trong âm đạo và có thể dẫn đến PID. Nữ giới nhiễm phải bệnh STD, có thói quen thụt rửa âm hộ thường xuyên, đặt vòng tránh thai hoặc sẩy thai, phá thai,… có nguy cơ mắc PID rất cao khi cổ tử cung mở, tạo điều kiện cho vi khuẩn xâm nhập vào.
Sử dụng thuốc kháng sinh uống là phương pháp chữa PID hay gặp nhất. Đôi lúc có thể sử dụng đường tiêm tĩnh mạch để điều trị trong những trường hợp cấp tính hoặc nhập viện chữa nếu cả kháng sinh đường uống và đường tiêm đều không hiệu quả. Trong vài ba trường hợp, phẫu thuật có thể quan trọng để trị áp xe hoặc sự kết dính gây đau đớn trầm trọng. PID trong trường hợp viêm nhiễm cấp tính có thể phải cắt bỏ tử cung khẩn cấp.
Vì viêm vùng chậu gây ra bởi một căn bệnh phát tán qua những đường tình dục nên bệnh có thể ngăn chặn được. “Gần gũi” an toàn với “áo mưa” và xét nghiệm STD thường xuyên là điều quan trọng. Kiểm tra và điều trị STD trước khi đặt vòng tránh thai có thể làm giảm đáng kể nguy cơ bị PID sau này. Ngoài ra, việc thụt rửa cũng có thể làm tăng nguy cơ mắc PID nên cần thận trọng với thói quen này.
Bảo Bảo (Theo Very Well Family)