HPV là một loại vi rút gây u nhú ở người, là bệnh phát tán qua những đường tình dục phổ biến nhất trên thế giới hiện tại. Rất có thể người bệnh sẽ bị mắc vi rút HPV trong cuộc đời nhưng không có bất kỳ biểu hiện hoặc triệu chứng nào.
Virus HPV gây ra nhiều bệnh lý ung thư nguy hại như: ung thư cổ tử cung, ung thư vòm vòm, ung thư “cậu bé”, ung thư lỗ đít, ung thư âm hộ, sùi mào gà,… với tỷ lệ lên tới 90% tại cả nam và phụ nữ. Đây đều là những căn bệnh hiểm nguy, khó điều trị, biến chứng lớn tới cuộc sống, tiền bạc và tính mệnh của người bệnh.
1. HPV Virus là bệnh gì?
HPV được xem là nguyên do hàng đầu trong các bệnh lây truyền qua những con đường tình dục (Sexually transmitted infection – STI). Có rất nhiều loại virus HPV khác nhau. Không phải tất cả trong số đó đều gây bệnh nghiêm trọng. Vài ba chủng virus chỉ gây ra mụn ở bộ phận sinh dục và hậu môn. Vài ba chủng hiểm nguy có thể xâm nhập và gây bệnh ở bên trong cơ quan sinh dục và trở thành căn nguyên gây nên các loại ung thư tại cổ tử cung, lỗ đít và các bộ phận sinh dục khác.
Vì vậy, tùy vào chủng virus gây bệnh mà có thể nhiễm virus mà không có bất cứ triệu chứng hay triệu chứng nào cũng có thể mắc các bệnh nan y như ung thư cổ tử cung. Dưới đây là những bệnh ung thư hiểm nguy do virus HPV:
-
Ung thư cổ tử cung (UTCTC)
Ung thư cổ tử cung là loại ung thư xảy ra ở tế bào lót cổ tử cung – phần dưới của tử cung (dạ con), nối tử cung với âm đạo. Cổ tử cung được bao phủ một lớp mô mỏng được tạo thành từ các tế bào ở cổ tử cung. Ung thư bắt đầu thời điểm những tế bào lót tại cổ tử cung tiến triển không kiểm soát và lấn át các tế bào thường, tạo thành khối u trong cổ tử cung.
UTCTC là loại ung thư rất thường gặp ở con gái, đứng thứ 2 sau ung thư vú. 99,7% trường hợp UTCTC có sự hiện diện của virus HPV, hay gặp nhất là 2 týp virus HPV 16,18; kế tiếp là các tuýp HPV 31, HPV 33, HPV 45.
Đây là loại ung thư xảy ra bề mặt ngoài của cơ quan sinh dục nữ. Âm hộ là vùng da bao quanh niệu đạo và âm đạo, bao gồm cả âm vật và môi nhỏ. Các hình thái ung thư âm hộ là khối u hoặc loét “cô bé” gây đau hoặc/và ngứa. Tần suất mắc bệnh thấp hơn những loại ung thư sản khoa khác.
Ung thư âm hộ gồm 2 loại: Ung thư tế bào vảy âm đạo và U sắc tố âm đạo. Hai týp virus HPV 16, 18 cũng là 2 lý do chính gây ung thư âm hộ và ung thư âm đạo (chiếm đến 50-65%), ngoài ra là những týp virus HPV nguy cơ cao khác.
Ung thư âm hộ xảy ra do những tế bào tại âm đạo tiến triển vượt quá khả năng kiểm soát của cơ thể. Tế bào ung thư có thể xâm lấn và di căn xa tới các cơ quan bộ phận khác nhau của cơ thể (như phổi) và tiếp tục tiến triển tại đó. Giống như ung thư âm hộ, 2 týp virus HPV là căn nguyên chiếm đến 50-65% trường hợp bị ung thư “cô bé”.
Ung thư hậu môn là các loại ung thư biểu mô tế bào vảy, ung thư tuyến, ung thư hạch, khối u ác tính hoặc ung thư biểu mô basaloid. Đây là một trong các bệnh ung thư nghiêm trọng nhất lúc nam giới nhiễm HPV, gây ra bởi 2 týp virus HPV 16 và 18. Người có tiền sử có mụn cóc sinh dục thì nguy cơ mắc ung thư hậu môn rất cao.
Ung thư “cậu nhỏ” là loại ung thư hiếm gặp. Không cắt bao quy đầu và phơi nhiễm với virus HPV là yếu tố nguy cơ chính gây bệnh. Người có tiền sử sùi mào gà, thường là hệ quả của nhiễm virus HPV là khởi nguồn gây ung thư biểu mô tế bào vảy của “cậu bé” cũng như ung thư cổ tử cung ở nữ giới.
Virus HPV có thể được phát hiện trong 30 – 50% số trường hợp ung thư biểu mô dương vật. Có đến 30-90% lý do gây ung thư “cậu bé” do hai týp virus HPV 16,18.
Virus HPV, đặc biệt hai tuýp 16 và 18 là căn nguyên liên quan đến 70% ca ung thư vòm họng. HPV có thể lây truyền vào miệng và cổ họng thông qua “lâm trận” và gây ra bệnh ung thư vòm họng (phía sau cổ họng, bao gồm cả lưỡi và amidan). Vắc xin HPV có thể bảo vệ cơ thể phòng viêm nhiễm virus HPV qua con đường miệng, chặn nguy cơ các tổn thương vùng hầu họng.
-
Các tổn thương tiền ung thư hoặc loạn sản
Tình trạng nhiễm virus HPV dai dẳng có thể hình thành những tổn thương tiền ung thư hoặc loạn sản. Những tổn thương tiền ung thư là các thay đổi khiến tế bào cổ tử cung không còn như bình thường mà có xu hướng tiến triển thành ung thư, nhưng các tổn thương này chưa phải là ung thư, chỉ lúc đừng nên can thiệp thích hợp thì mới có nguy cơ vươn lên là ung thư.
2. HPV lây nhiễm thế nào?
Virus HPV rất hay gặp, dễ lan truyền nên ai cũng có thể lây lan. Vậy virus HPV lây qua những con đường nào? Virus HPV có thể lây truyền qua những đường tình dục và không qua tình dục (lây trường từ mẹ sang con, qua tiếp xúc trực tiếp,…).
HPV truyền nhiễm qua những đường tình dục: Có thể bị nhiễm HPV từ người bị nhiễm qua quan hệ bằng miệng, hậu môn và âm hộ. Bệnh hoàn toàn có thể lây sang người lành ngay cả khi người bệnh không có bất cứ triệu chứng hay triệu chứng nào của bệnh.
HPV không phụ thuộc vào số lượng người tình. Người bệnh vẫn có thể bị nhiễm HPV ngay cả thời điểm chỉ quan hệ với một người. Nguy cơ nhiễm sẽ cao hơn không những HPV mà còn những bệnh qua đường tình dục khác nếu bạn quan hệ với nhiều bạn tình.
Các triệu chứng của bệnh có thể không xuất hiện ngay lập tức. Có thể chỉ có triệu chứng sau nhiều năm quan hệ với người bị nhiễm. Vì vậy, không thể xác định chuẩn xác bị bị bệnh vào thời điểm nào.
Virus HPV không lây qua con đường tình dục: Trong một số trường hợp ít gặp khác, virus HPV có thể phát tán từ mẹ sang con, hay tiếp xúc qua da, niêm mạc có trầy xước, tiếp xúc với vật dụng có chứa dịch tiết cơ thể như đồ lót, tiếp xúc với tổn thương như vết loét, chảy máu,…
Nhiễm virus HPV cực kỳ thường gặp, độ tuổi dễ truyền nhiễm nhất là 20-30 tuổi. Virus thường tấn công mạnh những người thường xuyên bị stress, cơ thể suy yếu hay nhiễm siêu vi, có nhiều “đối tác”, làm chuyện ấy sớm… Với người hệ miễn dịch kém, HPV sẽ có cơ hội hoành hành sớm hơn. Người nhiễm HPV thường không có triệu chứng, virus tồn tại lâu dài và lặng thầm, tới lúc được phát hiện bệnh đã diễn tiến nặng, khó chữa, tác động lớn tới cuộc sống, tiền bạc, tỷ lệ tử vong cao.
HPV cũng có thể lây nhiễm từ mẹ sang con, nhưng điều này rất hiếm lúc xảy ra.
3. Virus HPV có bao nhiêu chủng loại?
Những nhà khoa học đã tìm ra hơn 100 chủng virus HPV khác nhau. Phần nhiều trong số đó đều vô hại, không xuất hiện triệu chứng và tự khỏi không cần trị.
Hiện có hơn 40 chủng virus HPV có thể gây bệnh tại bộ phận sinh dục và hậu môn. Trong đó có 15 chủng HPV có nguy cơ cao (chủng 16 và chủng 18), có thể gây bệnh ung thư từ ung thư cổ tử cung đến lỗ đít và những bộ phận sinh dục khác. Những chủng ít nguy hại hơn có thể gây ra mụn cóc ở bàn chân (đặc biệt là lòng bàn chân), mụn cóc tại bộ phận sinh dục. Một vài trường hợp, sau lúc làm chuyện ấy với người bị nhiễm phải bệnh vài tuần tới vài tháng mới mọc mụn.
Những thầy thuốc y tế cho biết, hầu hết các chủng HPV gây ra mụn nhọt trên da ở những vị trí như cánh tay, ngực, bàn tay hoặc bàn chân. Những loại khác nhau được tìm thấy chủ yếu tại những niêm phong trong cơ thể. Các lớp lót lót này là những lớp bề mặt ẩm bao phía ngoài các cơ quan và những bộ phận của cơ thể như âm hộ, lỗ đít, u ám, hầu gai. Những loại HPV được tìm thấy trên niêm mạc niêm mạc thường được gọi là HPV sinh dục. Các loại này không sống trên bề mặt da.
Các loại HPV phát tán qua con đường tình dục được chia thành hai nhóm, nguy cơ thấp và nguy cơ cao. Trong đó, có khoảng 14 loại HPV nguy cơ cao bao gồm HPV 16, 18, 31, 33, HPV 35, 39, 45, 51, 52, 56, HPV 58, 59, 66 và 68. Hai trong số này là HPV16 và HPV18 , là nguyên do đối với phần lớn những bệnh ung thư liên quan tới HPV.
Virus HPV chủng 6, 11 là chủng virus HPV nguy cơ thấp, không gây bệnh nguy hại nhưng chủng virus này khá vượt trội và hay gặp, được tìm thấy ở người với tỷ lệ lớn. Có tới 90% tình trạng nổi mụn nhọt sinh dục, u nhú, sùi mào gà làm 2 tuýp 6, 11, dù vậy có ít trường hợp. Đặc biệt, HPV type 11 cũng có thể gây ra những thay đổi đối với cổ tử cung.
Tiêm vắc xin HPV là giải pháp đơn giản, hiệu lực giúp ngăn ngừa vi rút HPV 6 và HPV 11 hữu hiệu. Những tìm hiểu cho thấy phản xin đạt hiệu lực lên đến 89-99% trong việc chống lại virus HPV 6 và HPV 11 ở những người từ 9-26 tuổi.
Hai chủng virus HPV 16 và HPV 18 là 2 chủng virus nguy cơ cao nhất và căn nguyên dẫn đến nhiều bệnh ung thư nguy hiểm như: ung thư cổ tử cung, ung thư “cậu bé”, ung thư vòm, ung thư lỗ đít, … Các bệnh do vi rút HPV chủng 16, 18 thường không gây ra các triệu chứng bệnh điển hình trong thời kỳ sớm.
Đặc biệt, chủng HPV 16 và HPV 18 là căn nguyên của khoảng 70% trường hợp ung thư cổ tử cung trên toàn thế giới. Đây là bệnh ung thư rất hiểm nguy, có thể vươn lên là “án tử” nếu không được phát hiện sớm và chữa kịp thời.
4. Dấu hiệu nhiễm HPV tại cả nam và đàn bà
Trong phần lớn trường hợp nhiễm virus HPV tại nam và nữ giới, hệ miễn dịch sẽ tạo ra kháng thể để chống lại virus trước thời điểm nó tạo thành mụn cóc. Thế nhưng, lúc xuất hiện bệnh, các biểu hiện nhiễm HPV sẽ khác nhau, tùy thuộc vào tuýp virus HPV và loại mụn cóc mắc phải:
– Mụn cóc sinh dục: Xuất hiện dưới dạng vết sưng nhỏ như súp lơ, không đau, tiết dịch và gây ngứa hoặc mềm lúc chạm vào. Ở phụ nữ, mụn cóc sinh dục hầu như xuất hiện ở âm hộ, cũng có thể gặp ở gần hậu môn, trên cổ tử cung hoặc trong âm đạo. Tại phái mạnh, mụn cóc sinh dục tạo thành trên dương vật và bìu hoặc xung quanh lỗ đít.
– Mụn cóc thông thường: Đây là mụn cóc thường xuất hiện trên bàn tay và ngón tay dưới dạng những nốt sần sùi, gồ lên. Mụn cóc dạng này chỉ gây mất thẩm mỹ, nhưng đôi lúc cũng gây đau đớn hoặc chảy máu.
– Mụn cóc lòng bàn chân (mụn cóc Plantar): Đây là những mụn cóc cứng, sần sùi, thường xuất hiện tại gót chân hoặc lòng bàn chân, gây ngứa ngáy khó chịu cho người bệnh.
– Mụn cóc phẳng: Đây là những tổn thương có đầu phẳng, hơi nhô cao, có thể xuất hiện ở bất cứ đâu. Trẻ em thường bị ở mặt, đàn bà bị ở chân, còn phái mạnh có xu thế nổi tại vùng râu.
5. Căn nguyên nhiễm HPV và các yếu tố nguy cơ
Virus HPV rất khó để kiểm soát bởi con đường phát tán đa dạng và có thể ủ bệnh rất lâu, có thể lên tới vài năm. Theo các thầy thuốc y tế, nguyên nhân nhiễm HPV xảy ra khi virus xâm nhập vào cơ thể qua tiếp xúc qua da với da, tiếp xúc qua vết thương hở, lây từ mẹ sang con.
Virus HPV rất phổ biến và ai cũng có thể nhiễm virus HPV. Dù vậy, những yếu tố nguy cơ khiến tỷ lệ lây nhiễm virus HPV cao hơn bao gồm:
– Có nhiều bạn tình: Nếu càng có nhiều “đối tác”, nguy cơ nhiễm virus HPV sinh dục sẽ càng cao. Không những vậy, việc làm chuyện vợ chồng với người có nhiều “đối tác” cũng làm tăng nguy cơ mắc nhiều bệnh lây qua đường sinh dục hơn.
– Tuổi tác: Mụn cóc sinh dục xuất hiện phổ biến ở thanh thiếu niên và thanh niên.
– Hệ thống miễn dịch suy yếu: Những người có hệ miễn dịch suy yếu (như người HIV/AIDS, người uống những loại thuốc ức chế miễn dịch) có khả năng nhiễm virus HPV cao hơn.
– Da bị tổn thương: Những người có vùng da bị hở hoặc có vết xước sẽ dễ phát triển mụn cóc thông thường hơn.
– Tiếp xúc không an toàn: Việc chạm vào mụn cóc của người khác hoặc không mặc đồ bảo vệ trước lúc tiếp xúc với các bề mặt có chứa virus HPV (như vòi hoa sen công cộng, hồ bơi, nắm tay cửa,…) có thể làm tăng nguy cơ nhiễm virus HPV.
6. Làm thế nào để không bị HPV?
-
Tiêm ngừa vắc xin HPV
Vacxin là cách phòng bệnh tác dụng tốt nhất ngày nay. Vacxin được tiêm cho người từ độ tuổi 11 tới 26 tuổi.
– Đối với con gái: Vacxin được tiêm cho bé gái từ 11-12 tuổi nhưng cũng có thể sử dụng cho đàn bà 26 tuổi mà chưa tiêm vacxin lần nào hoặc chưa tiêm đủ liều vacxin khi còn nhỏ.
– Đối với phái mạnh: Vacxin được tiêm cho bé trai từ 11-12 tuổi đồng thời cũng có thể sử dụng cho đàn ông 21 tuổi nếu chưa tiêm vacxin lần nào hoặc chưa tiêm đủ liều vacxin thời điểm còn nhỏ. Vacxin cũng được đề nghị với phái mạnh 26 tuổi nếu có quan hệ đồng giới hoặc hệ miễn dịch kém.
-
Tầm soát ung thư cổ tử cung
Ung thư cổ tử cung là một trong số lý do hàng đầu gây vô sinh ở phụ nữ, đe dọa tính mệnh nếu không được phát hiện sớm, can thiệp điều trị kịp thời và đúng cách. Tầm soát đúng định kỳ là một trong số các phương pháp đơn giản và hữu hiệu giúp phát hiện sớm những yếu tố nguy cơ, có phương pháp điều trị ngay từ thời kỳ sớm, tỷ lệ điều trị thành công cao. Bên cạnh việc tiêm chủng phòng bệnh, chị em đàn bà nên đi khám phụ khoa và làm các xét nghiệm sàng lọc định kỳ theo chỉ định của bác sỹ.
Thông thường, thời điểm tế bào cổ tử cung thay đổi bất thường sẽ mất từ 3 – 7 năm để trở thành ung thư. Vì vậy, xét nghiệm tầm soát có thể phát hiện sớm sự đổi thay này trước khi vươn lên là ung thư. Những phụ nữ có tế bào cổ tử cung đổi thay nhẹ có thể được theo dõi cho tới thời điểm trở về thông thường. Trường hợp tiến triển nặng sẽ cần phải chữa cắt bỏ vùng tổn thương.
-
Tình dục lành mạnh và an toàn
Hệ lụy của “gần gũi” thiếu an toàn là lan truyền những bệnh đường tình dục, trong đó virus HPV là nguyên nhân phổ biến. Để đảm bảo an toàn, tránh lây nhiễm phải bệnh, những cặp đôi cần sử dụng bao cao su lúc quan hệ, không “giao hoan” với nhiều bạn tình hoặc với người có những triệu chứng nghi ngờ bệnh; làm giảm những chất kích thích, rượu bia để đảm bảo sự tỉnh táo tránh trường hợp không làm chủ được bản thân dẫn đến quan hệ không an toàn.
Nếu quan hệ tình dục đường hậu môn cũng cần dùng “áo mưa”. Trường hợp quan hệ tình dục qua con đường miệng, mọi người cần sử dụng miếng bảo vệ. Không dùng chung đồ lót, khăn tắm với người khác.
Nên tầm soát bệnh xã hội mỗi 6 tháng một lần hoặc tới cơ sở y tế để khám khi có triệu chứng nghi ngờ bệnh. Lúc đang trị bệnh lý đường tình dục, cần tuân thủ hướng dẫn trị của bác sỹ, không làm chuyện ấy cho đến thời điểm bệnh khỏi hẳn để tránh lây cho “đối tác” và làm tình trạng viêm nhiễm nặng hơn.
7. Làm thế nào có thể phát hiện có bị nhiễm HPV hay không?
Không có xét nghiệm nào xác định mức độ nhiễm HPV của người nhiễm mà chỉ có xét nghiệm HPV tầm soát ung thư cổ tử cung. Xét nghiệm chỉ nên thực hiện ở con gái trên 30 tuổi. Nữ giới có thể biết bệnh nếu có kết quả xét nghiệm Pap không bình thường. Nhiều người chỉ biết lúc có các triệu chứng nghiêm trọng xảy ra.
Theo những bác sĩ, xét nghiệm HPV là xét nghiệm rất có giá trị trong việc phát hiện sớm sự hiện diện của virus HPV. Các xét nghiệm HPV hiện có chỉ được chấp thuận để xác định tình trạng nhiễm virus HPV trên người có cổ tử cung. Những xét nghiệm này có thể được thực hiện đơn độc hoặc cộng với các xét nghiệm khác (xét nghiệm Pap) để xác định nguy cơ tiến triển thành ung thư cổ tử cung. Hiện có các xét nghiệm HPV phổ biến như:
Đây là xét nghiệm đơn giản, thời điểm tiến hành khám phụ khoa, soi cổ tử cung, thầy thuốc sẽ lấy dịch âm hộ để tiến hành xét nghiệm. Xét nghiệm Pap được tiến hành nhằm tìm kiếm sự thay đổi trong các tế bào cổ tử cung, để tìm và phát hiện những khác thường cấu trúc và hình thái như dị sản, loạn sản,… là mầm mống của tế bào ung thư, từ đó giúp phát hiện bệnh sớm.
Đây là xét nghiệm quan trọng, giúp chuyên gia phát hiện có lạ thường tế bào hay không để tiến hành những xét nghiệm chuyên sâu, khẳng định bệnh.
Thinprep là xét nghiệm phết tế bào cổ tử cung được cải tiến so với xét nghiệm Pap Smear. Để lấy mẫu xét nghiệm, thầy thuốc sẽ dùng chổi tế bào để lấy những mẫu tế bào tại vị trí cổ tử cung. Các tế bào này được rửa trong chất lỏng định hình và cho vào lọ Thinprep, sau đó được bảo quản và mang tới phòng thí nghiệm. Tiêu bản được xử lý hoàn toàn tự động từ kỹ thuật tách chiết và phết tế bào lên mặt lam kính. Cuối cùng, chuyên gia giải phẫu bệnh sẽ tiến hành phân tích và cho kết quả.
-
Xét nghiệm DNA của HPV
Xét nghiệm HPV DNA là xét nghiệm quan trọng, có giá trị trong sàng lọc ung thư cổ tử tại con gái. Xét nghiệm này sử dụng hệ thống máy tách chiết DNA tự động và kỹ thuật tiên tiến nhằm phân tích, xác định chính xác sự hiện diện virus HPV. Phương pháp này không khẳng định 100% phụ nữ có mắc ung thư cổ tử cung, nhưng dựa vào kết quả thu được có thể phát hiện được virus gây bệnh đang tồn tại trong cơ thể, qua đó bác sĩ đánh giá nguy cơ bị bệnh trong tương lai và có giải pháp phòng tránh hữu hiệu.
Do thế, những bác sỹ thường khuyến cáo nên thực hiện phối hợp xét nghiệm HPV DNA với xét nghiệm Pap Smear hoặc xét nghiệm Thinprep để phát hiện và đánh giá những tế bào khác thường có nguy cơ gây ung thư từ sớm.
8. Virus HPV tồn tại trong cơ thể người bao lâu?
Virus tồn tại suốt đời trong cơ thể người bệnh ngay cả thời điểm người bệnh không có triệu chứng bệnh hay đã được chữa trị triệu chứng bệnh. Thông thường, cơ thể sẽ tự chống lại virus trước khi các vấn đề sức khỏe có thể xảy ra. Nhưng nếu không chống lại được thì virus sẽ biến những tế bào bình thường thành bất thường gây ra ung thư cho người bệnh.
9. Virus HPV gây ra bệnh tật gì?
Trong hầu như các trường hợp HPV không xuất hiện triệu chứng bệnh, bệnh nhân tự khỏi mà không để lại bất kỳ tác hại nào. Nếu nhiễm những chủng hiểm nguy, người bệnh có thể bị những vấn đề sức khỏe như mụn cóc, mụn rộp. Hình dạng mụn phong phú từ nhỏ tới to, từ nhô lên hay xẹp xuống. Ngoài ra, bệnh nhân còn có thể mắc các loại ung thư khác nhau.
10. Virus HPV có gây ra ung thư không?
Ung thư cổ tử cung là loại ung thư thường gặp nhất do HPV gây ra. Ngoài ra, người bệnh còn có thể bị những loại ung thư khác như ung thư “cô bé”, âm đạo, “cậu bé” và lỗ đít. Một vài trường hợp ít gặp như ung thư vùng miệng họng cũng có thể xảy ra.
Bệnh ung thư thường phát hiện sau nhiều năm đến hàng chục năm sống chung với HPV. Không có cách nào để biết một người bị nhiễm HPV có khả năng nhiễm phải bệnh ung thư hay không.
HPV cũng rất khó bị tiêu diệt hoàn toàn ở những người bị suy giảm miễn dịch (kể cả người bị HIV/AIDS). Bởi đó, ngoài tác động của HPV, họ còn có thể mắc những vấn đề sức khỏe khác.
Nếu mang thai và bị nhiễm HPV thì có thể bị mụn sinh dục hay những thay đổi tế bào lạ thường trong tử cung. Có thể tìm thấy những thay đổi tế bào lạ thường khi tầm soát ung thư cổ tử cung định kỳ. Chị em có bầu nên tầm soát ung thư cổ tử cung định kỳ ngay cả khi đang mang bầu.
11. Nhiễm HPV lúc có thai có biến chứng đến thai nhi không?
Phần nhiều không hậu quả! Phụ nữ nhiễm virus HPV lúc có bầu có thể stress rằng virus này có thể gây tác hại cho thai nhi, nhưng trong đa số các trường hợp, virus sẽ không gây hại đến thai kỳ. Bên cạnh đó, các tìm hiểu cho thấy cũng không có mối liên hệ nào được tìm thấy giữa virus HPV và sảy thai, sinh non hoặc những tác động thai kỳ khác.
Bên cạnh đó, nguy cơ lây truyền virus HPV cho em bé trong lúc sinh là rất thấp. Đa số trẻ sinh ra từ một sản phụ nhiễm phải bệnh sùi mào gà không gặp phải những tác động liên quan tới HPV. Trong vài ba trường hợp hiếm hoi, trẻ sinh ra từ sản phụ bị mụn cóc sinh dục sẽ phát triển mụn cóc tại cổ họng. Tình trạng nghiêm trọng này được gọi là u nhú đường hô hấp, trẻ có thể được mổ laser để ngăn những mụn cóc chặn đường thở.
12. HPV ở có thể tự khỏi không?
CÓ THỂ! Không phải tất cả những trường hợp nhiễm virus HPV ở người đều giống nhau. Thông thường, virus HPV tự biến mất mà không gây ra các vấn đề sức khỏe. Đối với phần đa những người có hệ miễn dịch khỏe mạnh, virus HPV sẽ tự đào thải và không còn tồn tại trong vòng 1-2 năm. Trong những trường hợp sau đây, virus HPV có thể không tự biến mất:
– Người bị ức chế miễn dịch: Những người bị HIV/AIDS, người đang được ghép tạng sử dụng thuốc ức chế miễn dịch, mắc các bệnh cần chữa trị bằng corticoid liều cao kéo dài…
– Nếu bạn nhiễm virus HPV nguy cơ thấp mà virus không tự mất đi, nó có thể chuyển thành mụn cóc sinh dục. Trong trường hợp này, người bệnh cần được chữa bằng cách cắt hoặc đốt bỏ chúng.
– Nếu bạn nhiễm virus HPV nguy cơ cao, virus có thể làm thay đổi những tế bào của cổ tử cung, “cậu nhỏ”, hậu môn hoặc miệng, từ đó phát triển các tế bào tiền ung thư. Nếu chúng không được kiểm soát, theo dõi hoặc chữa, cuối cùng sẽ gây ra ung thư trong vài năm sau đó. Điều này xảy ra tại khoảng 10% những người nhiễm HPV.
13. Có thể sống chung với virus HPV không?
KHÔNG NÊN! Tại phần đa người nhiễm, virus HPV hoàn toàn vô hại và không gây ra bất kỳ triệu chứng nào. Tuy vậy, lúc cơ thể không tự chống lại, chúng có thể gây ra mụn cóc tại bộ phận sinh dục và lỗ đít (khoảng 90%), gây ung thư hậu môn cho cả nam và nữ. Ở nhóm nguy cơ cao (khoảng 70%) lại có thể gây UTCTC ở con gái. Virus HPV có trên 120 loại, phổ biến tại cả nam và nữ, trong đó có 30-40 tuýp virus lỗ đít sinh duc, 15-20 tuýp sinh ung thư và 15-20 tuýp còn lại không sinh ung thư.
14. Kết quả xét nghiệm dương tính HPV nói lên điều gì?
Sau khi tiến hành xét nghiệm HPV, nếu kết quả xét nghiệm HPV dương tính thì nói lên điều gì? Theo các bác sĩ ý tế, khi xét nghiệm HPV nếu kết quả dương tính đồng nghĩa với việc có sự hiện hữu của virus HPV trong cơ thể. Nhưng bạn đừng vội căng thẳng mà hãy thật bình tĩnh lắng nghe và tiến hành theo các hướng dẫn của bác sĩ chuyên môn. Hầu hết số trường hợp bác sỹ sẽ chỉ định thực hiện thêm vài ba xét nghiệm để góp phần chẩn đoán khẳng định bệnh. Những xét nghiệm bổ sung như:
– Sinh thiết tế bào cổ tử cung nhằm phát hiện những tế bào không bình thường
– Sinh thiết kết hợp cùng nội soi để quan sát tổn thương tại cổ tử cung
– Thực hiện xét nghiệm PAP (phết tế bào cổ tử cung)
Cần chú ý, nếu xét nghiệm HPV dương tính chỉ cho biết cơ thể đã bị nhiễm virus chứ không khẳng định bạn đã mắc ung thư cổ tử cung. Bên cạnh đó, kết quả dương tính có hiểm nguy hay không còn tùy vào việc chẩn đoán người bệnh dương tính với chủng virus HPV nào.
Theo đó, 2 chủng virus HPV 16 và 18 có nguy cơ cao gây ung thư cổ tử cung. Riêng chủng 11 và 6 liên quan đến tình trạng mụn cóc sinh dục và người bệnh cần được chữa triệt để. Trường hợp nhiễm những tuýp HPV nguy cơ cao, thầy thuốc sẽ khuyến cáo người bệnh tiến hành xét nghiệm PAP định kỳ để sớm phát hiện những không bình thường ở giai đoạn sớm hoặc tế bào tiền ung thư để có kế hoạch kiểm soát bệnh tốt hơn.
15. Virus HPV có thể trị trị được không?
Hiện nay, y học vẫn chưa tìm ra phương pháp để chữa trị trị triệt để căn bệnh này. Chỉ có thể giảm hoặc làm mất những triệu chứng của bệnh như:
– Đối với người bệnh mắc sùi mào gà: Có thể sử dụng thủ thuật loại bỏ những tổn thương do HPV gây ra, kèm với dùng thuốc. Cần để ý rằng, không phải tất cả các tổn thương do HPV gây ra đều xuất hiện vào cùng một thời điểm. Vì vậy, dù đã được trị ngay lúc phát hiện những tổn thương thứ nhất thì nguy cơ tái nhiễm vẫn có thể xảy ra, nên người bệnh cần chủ động theo dõi sức khỏe, tuân thủ chỉ định của bác sỹ để có kết quả điều trị tốt nhất.
– Mụn tại cơ quan sinh dục hoặc những chi: bệnh có thể được điều trị khỏi bằng các đơn thuốc mà thầy thuốc kê cho bạn. Điều cần thiết nhất là giải thích rõ triệu chứng mà bản thân đang mắc phải.
– Tiền ung thư cổ tử cung: Xét nghiệm Pap và thăm khám sức khỏe định kỳ.
– Những ung thư khác: cũng được chữa tốt hơn nếu được phát hiện bệnh sớm. Không còn cách nào khác ngoài việc kiểm tra sức khỏe định kỳ và làm những xét nghiệm cần thiết cho quá trình chẩn đoán bệnh.
Phòng khám Đa khoa 11 Thái Hà – Địa chỉ uy tín để chữa HPV tại Hà Nội
Phòng khám Đa khoa 11 Thái Hà là nơi quy tụ đội ngũ thầy thuốc chuyên nam khoa, gần 40 năm kinh nghiệm trong nghề, áp dụng các phương pháp chữa trị bệnh mới, kết hợp cả Đông – Tây y đảm bảo sẽ đem tới hiệu quả chữa trị tốt nhất, giảm thiểu nguy cơ tái phát.
Phòng khám có quy mô lên tới 2000 m2, có đầy đủ những phòng chức năng chuyên dụng, từ phòng tiếp người bệnh, phòng thuốc, phòng thăm khám, phòng xét nghiệm, phòng thủ thuật,… sạch sẽ, khang trang và đảm bảo vô trùng kỹ lưỡng.
Phòng khám Đa khoa 11 Thái Hà liên tục chú trọng đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị y tế tiên tiến nhằm đảm bảo tốt nhất cho quá trình thăm khám và trị bệnh.
Bảng giá thăm khám công khai, minh bạch, hợp lý. Không những thế, hàng tháng phòng khám còn xây dựng những chương trình khám bệnh với nhiều ưu đãi, trợ giúp về kinh tế, giúp người bệnh có nhiều cơ hội thăm khám và chữa trị bệnh.
Cập nhật những chương trình ưu đãi đang được triển khai tại phòng khám Đa khoa 11 Thái Hà với mức bảng giá thấp, giúp người bệnh an tâm hơn khi đến thăm khám và chữa trị.
- Ưu đãi các gói khám bệnh nam giới tại phòng khám Đa khoa 11 Thái Hà:
- Ưu đãi các gói khám phụ khoa tại phòng khám Đa khoa 11 Thái Hà:
- Ưu đãi những gói khám bệnh truyền nhiễm qua đường tình dục tại phòng khám Đa khoa 11 Thái Hà:
Đảm bảo tất cả bảng giá đều được công khai, minh bạch. Quy trình thăm khám chuyên nghiệp, kết hợp với đó là sự hướng dẫn chu đáo, hết lòng từ những y tá, điều dưỡng viên, giúp người bệnh cảm thấy an tâm và vô tư trong suốt thời gian chữa bệnh.
Dịch vụ y tế chất lượng, thủ tục ngắn gọn, thời gian linh hoạt, thông tin bảo mật, thái độ của bác sỹ cũng như nhân viên y tế đều rất nhiệt tình và chu đáo.
Nếu có bất cứ băn khoăn nào xoay quanh về virus HPV và cách trị trị, bạn có thể chat ngay hoặc gọi tới Hotline: 0365.116.117 để được giải đáp nhanh nhất.